Trích Sách (Trena Chellino)
(cập nhật ngày 16/8/2022)
Xin chia sẻ cùng quý vị và các bạn những điểm nổi bật trích và dịch từ cuốn sách Love Poured Out for Viet Nam của tác giả Trena Chellino (Tình Thương Tuôn Đổ cho Việt Nam.)
Lời cống sách của tác giả:
Cuốn sách này xin trọn tình cống hiến vào niềm thương nhớ đến Chester và Mary Travis là những người mà đức tin không lay chuyển nơi Đức Chúa Trời đã uốn nắn đời sống của năm người con của họ và đã để lại một gia sản cho những thế hệ tương lai.
Cả hai người, Chester và Mary, không ai đã muốn viết sách về mình hay về những kinh nghiệm mình đã từng trải- dầu vậy Chúa đã có một chương trình để kể lại câu chuyện đời họ.
"...tình thương của Đức Chúa Trời tuôn đổ vào lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh là Đấng đã được ban cho chúng ta." (Rô-ma 5:5)
1. Đây là câu chuyện để đời của một cặp vợ chồng đầy nhiệt huyết--Chester và Mary Travis, ông bà Nội của tôi. Điều bạn đọc sẽ học biết là câu chuyện của một vợ chồng Giáo Sĩ Cơ Đốc. Từ khởi điểm đến tận cùng, họ đã phục vụ, chung nhau đồng lòng qua hơn năm thập niên. Chúng tôi biết rằng họ đã chẳng nao núng lùi bước, chẳng nghi ngờ, chẳng ngó qua bên hữu hay bên tả của con đường toàn vẹn mà Chúa đã chỉ vẽ và dẫn dắt (trang vii và viii)
2. Họ rời Mỹ Quốc khi còn trẻ tuổi, đẹp người, vui tươi tràn đầy nhựa sống, và yêu nhau thắm thiết. Mary phản ảnh vẻ đẹp của thiên sứ trong nhân hậu và cách sống. Cô là một người đầy tình thương. Tình thương khơi dậy đời sống của Cô và kích động người chồng của mình. Ông học tiếng Việt rất giỏi. Còn tiếng Việt của bà: số dách. Bấy nhiêu cũng đủ thu hút tình bạn với người dân Việt (trang ix).
3. Chester và Mary Travis là Giáo Sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp phục vụ tại Đông Dương thuộc địa Pháp (mà ngày nay gọi là Việt Nam) từ năm 1925 đến 1975. (trang xii)
4. Bị quân đội Nhật Bản bắt bỏ tù 3 năm trong đệ nhị thế chiến, họ từng trải những kinh nghiệm khổ đau chưa bao giờ từng trải. Vậy mà khi được trả tự do, họ trở lại ngay cái mảnh đất mới mà họ gọi là nhà và với người dân Việt mà họ đã đem lòng yêu thương. Chẳng có gì có thể thuyết phục được họ thôi làm cái sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho họ. (trang xiii)
Khởi Điểm
1.1 Một ngày kia, Paul (con trai của Giáo Sĩ Travis) chia sẻ về thế nào việc anh thấy ba của anh đạp xe đạp ba bánh trên đường phố Hayward là chuyện thường tình. Có lần anh gặp ba của anh đang phát truyền đạo đơn trước mặt một quán rượu trong địa phương. Anh Paul đến gần chào hỏi ba của mình nhưng đã bị ông thân xua đi bảo rằng, "Con đi đi, Ba có thể nói chuyện với con lúc nào cũng được. Ở đây Ba đang nói chuyện với những người lạc mất." Bạn có thể mang người giáo sĩ ra khỏi công trường truyền giáo nhưng bạn không thể bảo người giáo sĩ ngừng và đừng có nói cho người khác biết về Chúa là điều ông làm đã thật nhiều năm qua. [trang 6]
Những Năm Đầu (1897-1903)
2.1 Ba tôi là một người rất sùng đạo, rất khắc khe trong đời sống theo Chúa của ông. Ông không làm việc gì hết trong ngày Chúa Nhật và đã nhiều lần khi còn là con nít tôi không hiểu lý do tại sao ba tôi không sửa khi đồ chơi của tôi bị hư trong ngày Chúa Nhật. Ông là một người thợ mộc và cũng là người sửa máy móc. Căn nhà mà chúng tôi sống là do ba tôi xây. Ông Bà Nội của tôi và Cô của tôi sống trong căn nhà ở chung đường với chúng tôi cũng do ba tôi xây dựng nên.
Tôi không nhớ gì nhiều hơn nữa về ba tôi bởi vì ông đã lâm nạn lúc tôi năm tuổi. Ông qua đời năm 1903 vì tai nạn trong nhà máy cưa, để lại mẹ tôi với hai đứa con, em tôi là Fern và tôi...
Sự qua đời của ba tôi đã ảnh hưởng đến tôi thật nhiều không bao giờ dứt. Ba tôi để ý đến tôi nhiều lắm, nhưng rồi sự chăm sóc đó đã vội mất đi, và điều này đã ảnh hưởng đến đời sống tôi vô lường. Mẹ tôi tái giá... và gia đình sau đó có tất cả 6 người con.
Sau khi ba tôi qua đời và nhiều năm sau đó, tôi đã rút lại vào trong vỏ sò của đời mình và không muốn liên hệ với ai khác. Tôi nhớ cái cảm giác lạc mất, mà đúng vậy, trong những năm sau khi ông qua đời. Tôi lớn lên sống trong một trạng thái bất an và lắm lúc hãi hùng. Dường như chẳng có ai giúp đỡ mình. [trang 9, 10]
Tiếng gọi và người đồng hành
3.1 Tôi rất thích ngành kỹ sư. Từ lúc nhỏ tôi đã có những hiếu kỳ luôn muốn biết vì sao những máy móc dụng cụ có thể hoạt động được. Bởi thế tôi có thể có những hướng đi trong ngành kỹ sư bên cạnh cái ngành chơi banh cà-na (football). Năm 17 tuổi vào ngày 31 tháng 8 năm 1915, tôi đã đệ đơn xin bằng sáng chế với cơ quan cứu xét và cấp bằng sáng chế Hoa Kỳ liên quan đến cái máy nổ mà tôi đã phát minh. Tôi luôn muốn sửa, chế, và tạo ra cái gì mới mẻ. Lúc đó tôi đâu có ngờ rằng Chúa đã có một chương trình để dùng khả năng sáng chế và kỹ sư xây dựng của tôi!
Khoảng năm lớp 10 trung học những diễn tiến thú vị bắt đầu xảy ra. Tôi đã xưng nhận đức tin theo Chúa năm 14 tuổi nhưng đời sống thuộc linh không tăng trưởng gì cho đến một ngày kia có một mục sư Báp-tít đến khu tôi ở để chăm sóc một nhà thờ ở đó. Ông ta thật sự đã bắt đầu thay đổi, không phải làm náo loạn đời sống từ dưới lên trên, mà là làm đổi mới đời sống từ trong ra ngoài, tại thôn xá Morocco (ở tiểu bang Indianna). [trang 14]
3.2 Ông Mục Sư Báp-tít đó thuyết phục tôi đi học khóa mùa hè năm 1918 ở trường Kinh Thánh Moody. Ông ta xuất thân từ trường này và rất nóng cháy trong việc gởi tôi vào đây vì ông nghĩ rằng nó sẽ có tác động lâu dài trong đời sống của tôi, và thật vậy. Tôi suy tưởng rằng tôi sẽ đi học hè ở đó và rồi thì đến mùa thu tôi sẽ vào đại học đường Purdue để chơi banh cà-na. [trang 15]
3.3 Và như thế tôi vào học tại Viện Kinh Thánh Moody và chẳng bao giờ rời xa nó. Ở đó Chúa nắm lấy tôi và chẳng để tôi đi...
Cha mẹ tôi không ngăn cản tôi vào học tại Viện Kinh Thánh Moody dù rằng họ không hiểu tại sao tôi lại chịu bỏ không đi học cái ngành kỹ sư điện tại viện đại học Purdue. Một khi năng quyền của Chúa Thánh Linh đã vào sâu trong lòng của tôi, tôi không còn tự chủ nữa. Tôi không có một mảy may nghi ngờ gì về việc Chúa vạch sẵn một con đường cho tôi đi. [trang 16-17]
3.3 Thật là một điều tuyệt vời khi viện thánh kinh Moody cho phép chúng tôi làm đám cưới trong khi còn đi học. Một trong các vị giáo sư đã đồng ý làm phép giao cho chúng tôi, và thật là một đám cưới để đời trong ngày 20 tháng 4 năm 1930 khi tôi cưới Mary Nellie Hall làm vợ. Ồ! về số người tham dự trong ngày cưới đó bạn có thể đếm được với 2 ngón tay; mẹ tôi và cô bạn chí thân của Mary, tức là Annie Ludwig...
Grady Mangham, một giáo sĩ đồng lao, về sau có biên lại diễn biến này trong cuộc đời của Mary, ông viết rằng: "Mary Hall sanh tại một nông trại ở tiểu bang Maine, và Cô mãi luôn là một người xuất thân từ miền Đông Bắc Hoa Kỳ (New Englander). Ảnh hưởng của gia đình Cơ-đốc-giáo đã uốn nắn thuở thiếu thời của Cô. Vốn được huấn luyện để trở nên một nhà mô phạm, và cô đã theo đuổi sự nghiệp này trong 3 năm, Cô đã bỏ một việc làm tốt để đi vào Viện Kinh Thánh Moody theo tiếng gọi của Chúa. Hai điều tuyệt vời đã xảy ra tại đó là hai điều đã ảnh hưởng đến Cô trọn đời. Cô nghe tiếng thôi thúc của các giáo sĩ trở về từ cánh đồng truyền giáo--nghe tiếng gọi--Cô cân nhắc giá phải trả--và Cô đã trả lời, "Con đây, lạy Chúa, xin sai con đến miền xa xôi hẻo lánh của địa cầu này nếu đó là Ý muốn của Ngài." Điều thứ hai đã xảy ra trong ngày lễ ra trường ấy là khi Cô làm đám cưới với anh Chester Earl Travis." [trang 23-24]
Sự chuẩn bị cho giáo vụ
4.1 Dường như công việc của ma quỉ là ngăn không cho chúng tôi đi vào cánh đồng truyền giáo. Chúng tôi nhớ rất rõ cái cam kết của mình đó là sẽ đi làm giáo sĩ tại những nơi xa xôi hẻo lánh, sao chúng tôi không có đang nằm trong tiến trình này. Chúa có đưa dẫn một mục sư Báp-tít đến thăm viếng chúng tôi thường xuyên và chúng tôi cũng có nhiều lần tâm tình mật thiết. Một ngày kia khi đang nói chuyện, tôi nói với ông rằng chúng tôi đã tình nguyện đi làm việc cho một cơ quan truyền giáo quốc ngoại, nhưng mà tiến trình chậm quá. Nếu chúng tôi không tìm được đường để xuất ngoại, thì cơ hội sẽ vội qua đi. Tôi nói với ông, "Thì giờ qua đi nhanh chóng. Nếu chúng tôi già thêm đi, thì chúng tôi không hội đủ điều kiện để được nhận và chúng tôi sẽ không đi vào công trường truyền giáo được. Chúng tôi muốn làm điều chúng tôi đã hứa nguyện với Chúa nhưng chúng tôi không biết cách nào để đi truyền giáo." Lúc đó tôi đã 25 tuổi và Mary 29, và tuổi đó đã được xem là trễ rồi cho cánh đồng truyền giáo. Ông ta suy nghĩ đôi phút và rồi nói rằng ông có biết một tổ chức truyền giáo mang tên hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp và tôi nên liên lạc với họ. Ông nói với chúng tôi rằng Paul Rader mới được bầu làm Hội Trưởng và đang ở Boston để họp đặc biệt và tôi nên đến và thiết lập liên hệ với họ... [trang 28]
4.2 Chúng tôi có được một chiếc xe Model T, rời hôi thánh Kittery và trở lại [quê vợ] ở Fryeburg, Maine với không một mảy may về ý hướng của bước tới của mình là gì. Cha mẹ vợ tôi luôn luôn niềm nở đón chúng tôi về ở. Chúng tôi quyết định lái một chuyến đi xa khởi đầu là đi về tiểu bang Indiana để xem Chúa muốn chúng tôi làm gì. Trong khi đó, tôi viết thư cho ông Hội Trưởng của tổng hội C&MA, Paul Rader, và nói với ông rằng chúng tôi muốn đi truyền giáo nhưng không biết làm sao để đi. Trong thư hồi âm, ông nói, "Hãy đến Nyack, New York, với Viện Huấn Luyện Giáo Sĩ." Trường đó là trường khởi đầu của Đại Học Nyack và Liên Hiệp Chủng Viện Thần Học hiện nay... [trang 32]
4.3 Trong khi chúng tôi ở tại Nyack chờ đợi [sự vụ lệnh], người giám thị của cánh đồng truyền giáo Nam Mỹ Châu cũng có mặt ở đó và chúng tôi có gặp ông hội họp thật vui vẻ. Ông đề nghị chúng tôi chuẩn bị để đi Nam Mỹ Châu. Nghe có vẻ tốt lành lắm và không có quá xa lắm, chỉ cách nhà vài tiếng đồng hồ thôi, không đến nỗi tệ. Đằng nào thì chúng tôi cũng chẳng muốn đi quá xa. Nhưng đó không phải là chương trình hoạch sẵn của Chúa cho chúng tôi. Chúng tôi ghi danh và học một bài học về ngôn ngữ Tây Ban Nha. Chỉ một bài học thôi mà tôi đã chẳng thông thạo gì cả. Ngôn ngữ không phải là điều tôi "yêu chuộng." Tôi có học tiếng La-tinh trong 4 năm trong khi những người khác chỉ cần học trong 2 năm đã vậy mà suýt nữa đã không thành đạt. Tôi không quan tâm chi lắm về việc học ngôn ngữ. Tôi biết nhiều về Vật-lý, Kỹ-sư, và những môn tương tự như vậy chứ còn "ngôn ngữ" thì không. [trang 36-37]
Đến Việt Nam
5.1 Cuối cùng thì có lịnh từ C&MA [Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp] rằng chúng tôi đã có vé đáp chiếc tàu thủy lớn nhất thế giới, tàu Leviathan, một chiến hạm mà Hoa Kỳ đã bắt được từ Đức Quốc Xã sau thế chiến thứ nhất. Chúng tôi cũng đã sắp hoàn chỉnh sự sẵn sàng để ra đi; chúng tôi đến thành phố Nữu-Ước để lấy giấy thông hành và hoàn tất những giấy tờ có cần.
Tôi còn nhớ cái cảm giác hồi hộp thú vị khi tôi nhìn thấy con tàu khổng lồ đó. Chúng tôi bước lên con tàu ấy ngày 15 tháng Ba, năm 1925 và hướng về nước Pháp... suy nghĩ đến những năm tháng sau đó sẽ xa bạn bè, những người thân yêu, sống giữa vòng những người lạ mặt với một ngôn ngữ lạ tai. [trang 42]
5.2 [sau 10 tháng kể cả 8 tháng ở tại Pháp] Rồi thì trong cái nóng của vùng nhiệt đới của ngày đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi hạ nêu tại Sài-gòn vào ngày 16 tháng Giêng năm 1926. Dưới ách đô hộ của người Pháp, Sài-gòn trở nên một thành phố tân thời với ảnh hưởng lớn của Ki-tô Giáo nhưng phần lớn người dân Việt là Phật tử. Sau này Sài-gòn trở thành một chỗ với chính quyền có tiếng là tham nhũng, sòng bài, đĩ điếm, và là nơi mua bán thuốc phiện.
Tôi còn nhớ cái cảm giác vui mừng thú vị khi bước lên trên mãnh đất đó. Khi chúng tôi bước xuống tàu giữa vòng những người lạ mặt mình chưa bao giờ gặp gỡ, chúng tôi có nghe Chúa nói, "nơi đây suốt đời." Chúng tôi đáp lại, "Dạ! Chúa! Chúng con hứa nguyện." Thế là mọi cây cầu đã bị chặt xuống, không còn đường quay trở lại nữa. Nơi đó là nhà của chúng tôi trong vòng 50 năm từ đó trở đi. Chúng tôi tâm huyết rằng đây không phải là một chuyến đi ngắn hạn để rồi hồi hương và viết sách hồi ký. Đó chằng phải là ý tưởng trong chúng tôi. Chúng tôi đã quyết định rằng đây sẽ là nhà của chúng tôi trọn đời. Nơi đây có quá ít người đã từng được nghe về phúc âm từ Đức Chúa Trời. Thật là một điều khó suy tưởng được rằng hằng bao thế kỷ sự cứu rỗi đầy trọn và miễn phí nhưng không của Chúa Cứu Thế chưa đến được người dân này và Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp là một tổ chức duy nhất đầu tiên đã đem đến TIN MỪNG mà tiếng Việt dịch là "Tin lành!" [trang 43-44]
Giáo Sĩ Hội Trưởng lúc đó là Edwin F. Irwin ở tuốt luốt phía trên của nước Việt Nam chỗ gọi là Tourane (bây giờ là Đà Nẵng) là nơi mà Hội Phúc Âm Liên Hiệp đã xuống thuyền trước tiên tại vùng Pháp thuộc Đông Dương. Giáo Sĩ đã đến Sài gòn để gặp chúng tôi và phương tiện duy nhất mà ông có thể dùng để về lại trụ sở của mình là một trong hai chiếc xe đó để cho tôi lái đưa ông về. Và thế là chúng tôi đi vượt hằng trăm dặm trên những đường đi còn đang khai phá để về đến nơi mình cần phải đi. Khi đến nơi rồi, người ta cho tôi làm thợ máy xe hơi vì xe bị hư và cần phải sửa chữa. Sau khi đã sửa cái xe được vài ngày, tôi quyết định rằng mình đã chẳng vượt đường xa đến Việt Nam để làm thợ sửa xe, cho nên tôi đã chuyển việc làm này lại cho các người dân bản xứ và quyết định học ngôn ngữ.
Một trong những việc khó nhất, phức tạp nhất và sờn lòng không tưởng tượng nỗi. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc âm với năm giọng khác nhau. Đổi giọng thì nghĩa ngữ cũng đổi theo. Đây là một điều lạ thường cực điểm khi một anh chàng vốn chẳng muốn học ngôn ngữ lại đem lòng yêu mến cái ngôn ngữ này. Khi học La-tinh trong những năm trung học, tôi chẳng bao giờ đem lòng yêu cái ngôn ngữ này thế nhưng tôi và nhà tôi lại thương mến tiếng Việt vô cùng, và tôi nghĩ rằng sở dĩ được như vậy là vì chúng tôi đã đem lòng yêu thương người dân Việt. Đó là bí quyết, và nó đến từ Chúa khi Ngài để vào lòng chúng tôi tình thương cho một giòng giống lạc mất đã bị quên lãng từ lâu. Chúng tôi định tâm định ý rằng chúng tôi sẽ học nói tiếng Việt như người Việt nói tiếng Việt. Chúng tôi thôi không giao tiếp với nói tiếng Anh. [trang 44-45]
Vùng Đất Cấm. Mặc dù tiếng Việt của chúng tôi chưa được toàn hảo, chúng tôi bắt đầu đi ra để gặp gỡ người ta. Chúng tôi có một chiếc xe cũ kỹ hiệu Ford. Chúng tôi bỏ truyền đạo đơn và Kinh Thánh trong đó xong rồi lái đi suốt ngày; đây là một việc làm khá không ổn.
Bất cứ nơi nào chúng tôi ngừng lại, nơi đó có đám đông kéo lại nghe người ngoại quốc nói tiếng mình và xem họ phát ra các truyền đạo đơn và Kinh Thánh. Có lần nhà cầm quyền chạy lại chỗ chúng tôi đang đứng. Họ không dừng lại, chỉ để ý xem chúng tôi đang làm gì và rồi bỏ đi. Hôm sau họ kêu tôi và nhắc tôi nhớ rằng mọi hành động rao truyền tôn giáo đều bị nghiêm cấm. Họ nói thì họ nói chứ chằng gây ảnh hưởng gì đến chúng tôi; chúng tôi biết mình phải vâng lời thẩm quyền cao hơn. Và rồi với tinh thần lịch thiệp, chúng tôi cứ tiếp tục chuẩn bị trong thầm lặng để đi đến một lãnh địa khác của quân thù. Sợ thì có đó, nhưng thà vâng phục Chúa hơn là vâng phục người ta. [trang 50]
... Chúng tôi phải làm gì đây khi mà những sụ chống đối có tổ chức cứ tràn đến như một cơn lụt, khi mà những mục sư địa phương bị bắt bỏ tù, và chúng tôi thì bị nghiêm cấm không được rao truyền Phúc Âm bằng miệng giảng hay bằng truyền đạo đơn phát ra? Chúng tôi phải làm gì đây khi phải đối đầu với lệnh truyền của chính quyền giống như văn bản sau đây:
THÔNG BÁO CÔNG CỘNG
Chiếu theo quyết nghị của Tòa Án Hoàng Gia, nhằm ngày thứ Tư tháng thứ nhất của năm thứ Ba của Vua Bảo-Đại, xin toàn dân nhớ rằng chỉ có Công Giáo La-Mã mới có quyền rao truyền tôn giáo của họ trong tỉnh An-Nam.
Tất cả các tôn giáo khác bị nghiêm cấm, trường hợp ngoại lệ khi những tôn giáo khác đó là những tôn giáo mà người An-Nam đã theo từ nhiều đời trước đến giờ, đây là phong tục bình thường và vì thế sẽ không bị cấm.
Cho nên mọi tôn giáo mê tín dị đoan như là: Đạo Cơ Đốc, Đạo Tin Lành, và Đạo Cao Đài đều bị nghiêm cấm.
Bất cứ ai không tuân thủ theo quyết nghị trên sẽ bị trừng phạt.
Nha Trang, ngày 2 tháng 3, năm 1928
[trang 52-53]
7.1 Vợ của Giáo Sĩ
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó." (Sáng 2:18) Thật là một người giúp đỡ diệu kỳ mà Chúa đã ban cho tôi! Mary đã giúp đỡ thật nhiều trong những nhu cầu thuộc linh của người phụ nữ Việt Nam. Bà không phải chỉ là một người vợ của Giáo Sĩ, chính Bà là Giáo Sĩ. Công việc của Bà đã chạm đến lòng của những người phụ nữ này... Nếu mình cảm hóa được các bà trong gia đình Việt Nam, mình cảm hóa được các gia đình này mặc dù các ông là chủ gia đình, các bà là nội tướng. [trang 63]
... Nếu không có Mary để liên hệ với các phụ nữ và giúp đỡ tôi, chúng tôi đã chẳng có thể làm gì trong sứ vụ của mình. [trang 68]
8.1 Luôn luôn là một cuộc mạo hiểm
"Thật là tốt lành khi mình giao phó vào trong tay của Đấng có thể quán xuyến được mọi việc trong mọi hoàn cảnh. Và thế là từ năm 1925 đến năm 1931, chúng tôi đã hoàn tất được giai đoạn đầu trong những ngày hạnh phúc nhất của đời sống chúng tôi." Tôi phải nói một tí về chuyến đi nghỉ phép đầu tiên này... [trang 69]
... Thật là một cuộc đoàn tụ gia đình để đời với gia đình của Mary tại Fryeburg tiều bang Maine! Sau nhiều năm xa cách, nỗi vui mừng tràn ngập trong sự ngợi khen và cảm tạ Chúa về sự thành tín của Ngài trải suốt nhiều năm [trang 72]
9 Xây dựng hội thánh
"Chúng tôi về nhà nghỉ phép với sự suy nghĩ rằng nghỉ phép sẽ tạo hội cho mình "xa nhau" để mà gần nhau. Có ba lý do để cho các giáo sĩ nghỉ phép: có thời gian để nghỉ ngơi và thay đổi đôi chút, có thời gian để thăm viếng bạn bè và người thân mà mình đã nhiều năm nay không gặp, và cuối cùng, nhưng không phải là không quan trọng, có thời giờ để gặp gỡ những người đã cầu nguyện và dâng hiến trong việc gởi các giáo sĩ đi ra rao giảng Tin Lành vinh hiển. Việc nghỉ phép này là chuyện bình thường đối với các giáo sĩ ở khắp nơi trên đất nước này. Việc nghỉ ngơi của các giáo sĩ chúng tôi thường kéo dài khoảng trên dưới ba tháng. [trang 73]
Có người hỏi, "Ông Bà đã làm xong công tác rồi phải không? Ông Bà đã mở đường rồi giờ thì có thể để cho người khác tiếp tục công việc mình được không? Không, không đâu. Đây là việc cả đời mà. Họ là đồng bào của chúng tôi; đây là việc cả đời chứ đâu phải chuyện mạo hiểm tạm thời đâu; chúng tôi đã dâng hiến cuộc đời mình. Làm sao chúng tôi có thể ở nhà trong khi hằng triệu người còn chưa được nghe giảng đạo? Một năm nghỉ phép đó trôi qua thật nhanh và chúng tôi quay trở lại với một chuyến đi vô cùng mạo hiểm mà tôi chưa từng được biết đến. Thật là một nỗi vui lớn lao khi được dự phần trong các đội cứu nguy trên toàn thế giới! [trang 73]
... Chúng tôi trở lại công trường truyền giáo tại Việt Nam năm 1932, lần này qua ngõ Thái Bình Dương. [trang 75]
Xin hoan nghênh sự trao đổi ý kiến của quý vị và các bạn liên quan đến những trích dẫn bên trên (cần có tài khoản Google.)
ReplyDeleteYour exchanging of ideas regarding the above highlights is welcome (you need a Google account.)